Trong nhiều thập kỉ, Singapore và Việt Nam đã kí kết nhiều hiệp định thương mại song phương, và hiệp định tránh đánh thuế 2 lần giữa Singapore và Việt Nam đánh dấu một bước tiến mới cho 2 quốc gia.
Tổng quan về hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (DTT) giữa Singapore và Việt Nam
Việt Nam được đánh giá là đất nước có các nguồn lực cần thiết tạo ra sự thịnh vượng cho nền kinh tế: lực lượng lao động lớn, vị trí chiến lược và các nguồn lực dồi dào. Và thật sự trong nhiều năm trở lại đây, Việt Nam đã có những sự tiến bộ vượt bật trong nhiều lĩnh vực.
Trong đó, tốc độ tăng trưởng thần kì mà Việt Nam đã đạt được là do sự cởi mở trong chính sách của chính phủ đối với các khoản đầu tư nước ngoài, thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư và doanh nhân mỗi năm.
Mặc dù Việt Nam đã phát triển quan hệ ngoại giao với Singapore gần 50 năm trước, nhưng mãi đến năm 1994, họ mới chính thức đồng ý về một hiệp định tránh đánh thuế 2 lần. Mục đích của thỏa thuận là thúc đẩy thương mại và đầu tư song phương của 2 nước.
Trong các hướng dẫn của hiệp định, tất cả các cá nhân và công ty cư trú tại một trong hai hoặc cả hai quốc gia ký kết đều có thể hưởng lợi từ nó. Và hiệp định này là một thỏa thuận toàn diện (comprehensive DTT), đồng nghĩa với việc tất cả các loại thuế đánh vào thu nhập đều được bao gồm trong hiệp định.
Các sắc thuế phổ biến được áp dụng trong hiệp định
Lợi nhuận kinh doanh
Khi công ty thuộc đối tượng cư trú của một trong 2 quốc giá kí kết hiệp định, nó chỉ bị đánh thuế ở quốc gia đó. Tuy nhiên, trường hợp công ty tại một quốc gia ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại quốc gia ký kết còn lại thông qua một cơ sở thường trú tại quốc gia còn lại, thì các khoản lợi nhuận của công ty có thể bị đánh thuế tại quốc gia còn lại, nhưng chỉ trên phần lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú đó.
Khi xác định lợi nhuận tích lũy của một “cơ sở thường trú”, cơ sở này được phép khấu trừ các khoản chi phí, chẳng hạn như chi phí hành chính và điều hành, để bù đắp thuế.
Cổ tức
Khi công ty là đối tượng cư trú của một nước ký kết, chi trả cổ tức cho cổ đông là đối tượng cư trú của quốc gia ký kết còn lại, cổ tức sẽ bị đánh thuế ở quốc gia kí kết còn lại. Tuy nhiên, cổ tức có thể bị đánh thuế ở nước kí kết nơi mà công ty chi trả cổ tức là đối tượng cư trú, nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng cổ tức thì thuế khi đó phải nộp sẽ là không vượt quá:
- 5% tổng giá trị cổ tức nếu đối tượng thực hưởng trực tiếp hay gián tiếp đóng góp hơn 50% vốn của công ty trả cổ tức hay đóng góp trên 10 triệu đôla Mỹ;
- 7% tổng giá trị cổ tức nếu đối tượng thực hưởng trực tiếp hay gián tiếp đóng góp từ 25% đến 50% vốn của công ty trả cổ tức;
- Các trường hợp còn lại là 12,5% tổng giá trị cổ tức.
Trường hợp theo đó điều khoản này không áp dụng: khi đối tượng thực hưởng cổ tức sở hữu một “cơ sở thường trú” ở cùng nước kí kết với công ty chi trả cổ tức, và cổ tức được chi trả có liên quan trực tiếp đến cơ sở thường trú này.
Ngoài ra, các công ty là đối tượng cư trú tại Singapore trả cổ tức cho đối tượng cư trú tại Việt Nam sẽ được miễn mọi khoản thuế ở Singapore tính trên cổ tức.
Tiền lãi cho vay
Tiền lãi phát sinh ở một nước kí kết nhưng được nhận ở nước kí kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế ở nước kia. Thuật ngữ “tiền lãi cho vay “dùng ở Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ hình thức nào, có hay không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của người đi vay.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào chính sách các nước kí kết, tiền lãi có thể phải chịu thuế ở nơi phát sinh và tỷ lệ sẽ không quá 10% tổng số tiền lãi nếu người nhận là người trực tiếp hưởng lợi.
Những quy định trên sẽ không được áp dụng nếu người thực hưởng các khoản lãi tiền cho vay là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết, tiến hành hoạt động doanh nghiệp tại Nước ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi tiền vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia và tiền lãi cho vay được trả có liên quan trực tiếp đến cơ sở thường trú này.
Tiền lãi cho vay phát sinh tại một Nước ký kết trả cho Chính phủ của Nước ký kết kia sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết thứ nhất.
Tiền bản quyền
Giống như tiền lãi, nếu tiền bản quyền phát sinh ở một quốc gia ký kết nhưng được nhận ở quốc gia kí kết kia, tiền bản quyền sẽ bị đánh thuế ở quốc gia kia.
Mặc dù vậy, tùy thuộc vào luật của nước kí kết nơi phát sinh tiền bản quyền, tiền bản quyền có thể bị đánh thuế ở quốc gia nơi phát sinh. Trong những trường hợp như vậy, người nhận là người hưởng lợi trực tiếp từ tiền bản quyền sẽ bị đánh thuế không vượt quá:
- 5% tổng số tiền bản quyền trong trường hợp là khoản tiền thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào trả cho việc sử dụng hay quyền sử dụng bằng phát minh, thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức hoặc quy trình bí mật, hay trả cho việc sử dụng hay quyền sử dụng thiết bị công nghiệp, thương mại hay khoa học hay trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại hay khoa học;
- 15% tổng số tiền bản quyền.
Những quy định trên sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động doanh nghiệp ở nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sử thường trú nằm tại Nước kia và tiền bản quyền được chi trả có liên quan trực tiếp đến cơ sở thường trú này.
Cách thức loại bỏ việc đánh thuế 2 lần
Theo quy định trong DTA, đối tượng cư trú ở một trong hai quốc gia được cho phép khấu trừ khoản thuế đã nộp phát sinh bên ngoài quốc gia cư trú.
Tuy nhiên, khoản khấu trừ này không được vượt quá số tiền thuế đánh vào cùng một khoản thu nhập ở quốc gia nơi người nộp thuế là đối tượng cư trú.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần giữa Singapore và Việt Nam hoặc hệ thống thuế tại Singapore, hãy nói chuyện với các chuyên gia tư vấn của chúng tôi bằng cách gửi tin nhắn hoặc gửi email cho chúng tôi qua service@bbcincorp.sg
Chia sẻ bài viết này